Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng - Thực trạng và giải pháp
I. Thực trạng lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng tại Việt Nam
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản đang dần trở nên phổ biến với những phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Hiện nay, có những chiêu trò lừa đảo tuy không mới nhưng nhiều người vì tâm lý hoang mang, lo lắng, nhẹ dạ cả tin vẫn trở thành nạn nhân của các hành vi lừa đảo với thiệt hại lên đến hàng triệu, hàng tỷ đồng. Qua tìm hiểu và nghiên cứu thực trạng, có thể kể đến một số thủ đoạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng nổi bật như:
2.1. Hack tài khoản mạng xã hội
Hack tài khoản mạng xã hội với mục đích lừa đảo chiếm đoạt tài sản hiện nay đang là vấn đề nhức nhối và phổ biến, thủ đoạn lừa đảo ngày càng tinh vi, dễ dàng đánh lừa người dùng. Theo số liệu khảo sát của nhóm tác giả đối với 1720 người, có 790 người (chiếm 45,9%) là nạn nhân hoặc quen biết với nạn nhân của hình thức lừa đảo này. Các thủ đoạn chiếm quyền sở hữu (hack) tài khoản mạng xã hội mà các đối tượng thường sử dụng có thể kể đến như: gửi một đường link qua ứng dụng như Messenger khi người dùng đăng nhập, thông tin về tài khoản và mật khẩu sẽ được gửi về cho đối tượng; thủ đoạn lừa khôi phục hoặc lấy lại tài khoản mạng xã hội đã bị khóa hoặc bị hack; thủ đoạn dò đoán mật khẩu. Sau khi đã chiếm được quyền sở hữu tài khoản, đối tượng sẽ thay đổi các thông tin đăng nhập như mật khẩu, email, số điện thoại. Sau đó, đối tượng sử dụng tài khoản này để thực hiện hành vi lừa đảo bằng cách nhắn tin cho những tài khoản trong danh sách bạn bè để hỏi vay tiền, nhờ chuyển tiền.
2.2. Lừa đảo trúng thưởng
Theo số liệu từ Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng (CT&BVNTD), tính đến tháng 6 năm 2021, Tổng đài Tư vấn, hỗ trợ người tiêu dùng 1800.6838 của Cục CT&BVNTD đã nhận được hàng trăm cuộc gọi tư vấn, hướng dẫn, hỗ trợ những vụ việc liên quan đến các chương trình trúng thưởng của các doanh nghiệp, các kênh quảng cáo trên truyền hình hoặc nhận được những tin nhắn trúng thưởng qua Messenger của Facebook,… Số liệu khảo sát của nhóm tác giả đối với 1720 người cho thấy có 653 người (chiếm 38%) là nạn nhân hoặc quen biết với nạn nhân của hình thức lừa đảo này. Dựa trên tình hình phức tạp và mức độ phản ánh của người dân có thể hình dung hành vi lừa đảo trúng thưởng qua các chiêu thức phổ biến như: mời chào mua hàng để nhận mã trúng thưởng; gọi điện thông báo trúng thưởng.
2.3. Giả danh cán bộ cơ quan chức năng
Thứ nhất, chúng sử dụng công nghệ cao gọi điện cho nạn nhân, thông báo họ đang bị kiện vì nợ tiền hoặc có liên quan đến một vụ án, chuyên án mà Cơ quan Công an đang điều tra, xác minh, đã có lệnh bắt của VKSND...; yêu cầu họ kê khai tài sản. Sau đó, các đối tượng dùng lời lẽ đe dọa sẽ bắt tạm giam nạn nhân để điều tra và yêu cầu họ chuyển tiền hoặc đọc mã OTP để chúng thực hiện việc chuyển tiền vào các tài khoản của chúng với vỏ bọc để xác minh, điều tra. Thứ hai, các đối tượng yêu cầu nạn nhân không được kể câu chuyện vừa trao đổi cho bất kỳ ai, mục đích để nạn nhân không có đủ thời gian để kiểm tra thông tin, không trình báo cho cơ quan Công an được biết.
2.4. Lừa đảo trên sàn thương mại điện tử
Thứ nhất, đối tượng lập tài khoản Người bán với thông tin giả trên sàn thương mại điện tử để giả mạo các cửa hàng, công ty kinh doanh trên thực tế nhằm tạo lòng tin cho khách hàng. Sau đó đối tượng sử dụng các thủ đoạn để lừa người bị hại chuyển khoản thanh toán rồi chặn liên lạc. Thứ hai, các đối tượng cài đặt đơn hàng ở trạng thái hủy đơn hàng nhưng vẫn tạo đơn vận chuyển của các công ty vận chuyển logistic đến địa chỉ người mua. Thứ ba, các đối tượng tự nhận là nhân viên của các sàn thương mại điện tử hỗ trợ về việc đổi trả đơn hàng mà bạn đã đặt trên các sàn thương mại điện tử trước đó.
2.5. Vay tiền online
Thứ nhất, lừa đảo khi vay tiền qua app bằng cách thu phí trước vay. Đây là hình thức lừa đảo núp bóng dưới app cho vay tiền online với những thủ tục nhanh chóng, dễ dàng cùng với lãi suất thấp. Sau khi khách hàng khai báo đầy đủ thông tin, app sẽ thông báo khoản vay của khách hàng đã được duyệt và chờ giải ngân. Lợi dụng tâm lý cần vay tiền gấp của khách hàng, các đối tượng thường yêu cầu khách hàng nộp trước 1 khoản phí gọi là phí duyệt vay hoặc phí giải ngân. Tuy nhiên sau khi khách hàng đã nộp phí, khoản vay của họ không được giải ngân và họ cũng không liên hệ được với bên cho vay.
Thứ hai, lừa đảo bằng cách không giải ngân nhưng vẫn đòi nợ. Đây là thủ đoạn khi khách hàng đăng ký vay tiền online xong, các đối tượng sẽ thông báo giải ngân khoản vay nhưng thực chất khách hàng không nhận được giải ngân của khoản vay nào. Tuy nhiên trên hệ thống của app vẫn ghi nhận khách hàng đã vay tiền thành công. Đến hạn trả nợ, các đối tượng sẽ đòi nợ khách hàng, ép buộc khách hàng trả nợ dù thực tế họ chưa vay được tiền.
2.6. Trung gian hoặc trực tiếp trao đổi, mua bán trên mạng
Thứ nhất, thủ đoạn trung gian trao đổi, mua bán trên mạng. Các đối tượng thực hiện hành vi mác là quản trị viên của một nhóm lớn, nạn nhân sẽ mất cảnh giác với các đối tượng này. Họ cho rằng các đối tượng này là những người uy tín, từ đó giao tiền, tài sản cho các đối tượng lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Thứ hai, thủ đoạn lập trang web giả mạo. Các đối tượng lừa đảo sẽ tự lập các trang web riêng giả mạo các trang web chính thống và chạy quảng cáo trên các trang mạng xã hội. Nhiều nạn nhân không tìm hiểu kĩ, thấy ưu đãi gấp nhiều lần nên đã click vào trang web giả mạo, nạp thẻ điện thoại, chuyển khoản qua tài khoản ngân hàng trên các trang web giả để mua hàng.
Thứ ba, thủ đoạn lừa đảo người bán. Trong trường hợp này, đối tượng lừa đảo hỏi mua các vật phẩm, đồ dùng qua các cửa hàng trên mạng xã hội. Các đối tượng lừa đảo đã sử dụng mạng Internet hay các phần mềm photoshop để làm giả hóa đơn chuyển khoản, người bán nhiều khi không chú ý tiền đã về tài khoản mình chưa mà đã mang hàng hóa đi gửi chuyển phát.
2.7. Lừa đảo trên thị trường giao dịch chứng khoán, chứng khoán quốc tế và lừa đảo liên quan đến tiền ảo
Thứ nhất, hành vi đánh tráo khái niệm để chiếm đoạt tài sản (người phạm tội lợi dụng sự chênh lệch tỷ giá để chiếm đoạt tài sản); Thứ hai, hành vi thay đổi giá mã chứng khoán trên website giả để chiếm đoạt tài sản.
Bên cạnh đó, tại Việt Nam, tiền ảo chưa được xem là một loại tài sản và sàn giao dịch tiền ảo chưa được pháp luật công nhận, bảo vệ. Vì vậy, nhiều đối tượng đã thực hiện các hành vi lôi kéo, dụ dỗ người dân tham gia giao dịch, đầu tư tiền ảo với lợi nhuận gấp 10, thậm chí là 100 lần nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản. Các thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng như: lừa đảo đầu tư tiền ảo nhằm chiếm đoạt tài sản; lừa đảo thông qua sàn giao dịch quyền chọn nhị phân, hành vi gửi nhận lãi suất tiền ảo.
Ngoài những hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng phổ biến nêu trên, trong đời sống hằng ngày vẫn còn tồn tại nhiều hình thức lừa đảo khác như: Lừa đảo thông qua việc quyên góp từ thiện, Tuyển cộng tác viên qua mạng, Gọi điện thông báo người thân bị bệnh nặng cần điều trị gấp yêu cầu bị hại phải chuyển tiền vào tài khoản do đối tượng cung cấp; Sử dụng mạng xã hội để kết bạn, thông báo gửi quà, sau đó giả danh nhân viên sân bay, hải quan, thuế... yêu cầu bị hại nộp tiền cước vận chuyển, thuế, phí, tiền phạt... vào các tài khoản ngân hàng do các đối tượng chỉ định rồi chiếm đoạt;…
II. Giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật
1. Theo pháp luật xử lý hành vi vi phạm hành chính
Từ những bất cập được nêu ra tại phần trên theo pháp luật xử lý vi phạm hành chính cùng với yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, tác giả có một số đề xuất hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính như sau:
Thứ nhất, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 15 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP đã kế thừa và bổ sung so với điểm c khoản 1 Điều 15 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP (Nghị định bị thay thế bởi Nghị định số 144/2021/NĐ-CP). Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định như sau: “c) Dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của người khác;”. Có thể thấy, cả hai Nghị định đều không quy định rõ ràng về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, gây ra khó khăn đối với người có thẩm quyền khi áp dụng pháp luật. Vì vậy, nhóm tác giả đề xuất nên sử dụng hành vi và thuật ngữ đã được quy định trong Phần các tội phạm của BLHS năm 2015 để quy định cho văn bản về xử lý vi phạm hành chính, bởi vì BLHS năm 2015 là văn bản pháp lý có hiệu lực cao hơn. Điều này không chỉ giúp cho các quy định của các văn bản pháp luật tương thích với nhau; đồng thời, giải quyết được vấn đề quy định chồng chéo hoặc bỏ lọt hành vi vi phạm. Cụ thể, điểm c khoản 1 Điều 15 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP sẽ được quy định như sau:
“c1) Dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác;
c2) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;…”
Thứ hai, mức tiền phạt phải được cân nhắc, điều chỉnh cho phù hợp với từng thời điểm, giai đoạn và tương ứng với từng nhóm đối tượng khác nhau. Tác giả đánh giá mức tiền phạt tối đa theo Nghị định 167/2013/NĐ-CP là hợp lý, đủ sức răn đe trong bối cảnh lúc đấy.
Vì vậy, đối với hành vi phổ biến và khó phát hiện, xử lý như trên, nhóm tác giả kiến nghị nhà làm luật quy định lại mức phạt tiền đối với hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản là 4.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng (theo tỷ lệ phần trăm đối chiếu với thu nhập bình quân đầu người).
2. Theo pháp luật hình sự
Từ những bất cập nêu trên, nhóm tác giả có một số đề xuất hoàn thiện pháp luật hình sự mà cụ thể là BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 như sau:
Thứ nhất, tác giả đề xuất nhà làm luật bỏ đi cụm từ “nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 173 và Điều 174 của Bộ luật này” tại Điều 290 BLHS năm 2015. Tức là biến Điều 290 BLHS năm 2015 trở thành một điều luật quy định về loại tội phạm riêng. Nếu như hành vi lừa đảo trong trong lĩnh vực thương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì chắc chắn sẽ định tội danh về “Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” tại Điều 290 năm 2015. Theo quy định của BLHS năm 2015, cấu thành tội phạm quy định tại điểm d, khoản 1 Điều 290 là cấu thành tội phạm riêng trong một lĩnh vực; trong khi đó cấu thành tội phạm “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (Điều 174) là cấu thành tội phạm chung. Khi một hành vi phạm tội đã thỏa mãn cấu thành tội phạm theo điểm d, khoản 1 Điều 290 BLHS năm 2015 thì đồng thời cũng thỏa mãn cấu thành tội phạm theo Điều 174 BLHS năm 2015 nhưng cấu thành tội phạm theo điểm d, khoản 1 Điều 290 BLHS năm 2015 đã phản ánh đúng tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và do vậy, người có hành vi phạm tội chỉ bị coi là phạm một tội theo Điều 290 BLHS năm 2015 về “Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”.
Thứ hai, tác giả đề xuất nhà làm luật không sử dụng biện pháp liệt kê các hành vi phạm tội cho “Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” tại Điều 290. Khi đã để Điều 290 trở thành điều luật quy định loại tội phạm riêng thì hành vi nào có sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử nhằm chiếm đoạt tài sản bị truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ được quy vào tội này. Nếu như người phạm tội có sử dụng thêm những thủ đoạn khác tại Chương XVI: Các tội xâm phạm sở hữu như lừa đảo, trộm cắp, lạm dụng tín nhiệm, đe dọa dùng vũ lực,... để chiếm tài sản trực tiếp thì sẽ bị xử lý về các tội xâm phạm sở hữu, ví dụ: lén lút đột nhập vào tài khoản ngân hàng trực tuyến rồi chuyển tiền vào tài khoản mình. Tuy nhiên, cũng với những hành vi đó để gián tiếp chiếm đoạt tài sản thì sẽ thuộc vào tội quy định tại Điều 290, ví dụ: trộm cắp thẻ ngân hàng, rồi dùng thẻ ngân hàng rút tiền. Khi nhà làm luật hoàn thiện quy định theo hướng này sẽ không cần phải lo về vấn đề xuất hiện thêm những dạng tội phạm sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản mới nữa. Dù hành vi nào xuất hiện thêm đi nữa thì cũng chỉ cần căn cứ xem đối tượng có sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử hay không, rồi xem xét đối tượng dùng thêm những thủ đoạn nào, thủ đoạn đấy dùng để chiếm đoạt trực tiếp hay gián tiếp. Điều này sẽ giúp việc định tội danh một cách rõ ràng, chính xác hơn.
Thứ ba, tác giả đề xuất nhà làm luật nên thay thế cụm từ “mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử” thành “không gian mạng, công nghệ thông tin hoặc phương tiện điện tử” để đồng bộ với khái niệm “Tội phạm mạng” quy định trong Luật ANM năm 2018. Đồng thời phải sửa đổi điểm d, khoản 1 Điều 290 BLHS năm 2015 theo hướng khái quát hơn bằng cách xóa bỏ cụm từ “Lừa đảo trong thương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng” thay bằng cụm từ “Dùng thủ đoạn gian dối”.
Trên đây là toàn bộ nội dung thông tin Asialaw muốn đem đến cho Quý độc giả liên quan đến nội dung "Lừa đào chiếm đoạt tài sản thông qua không gian mạng - Thực trạng và giải pháp". Nếu còn nội dung thắc mắc nào, xin vui lòng liên hệ với chúng tôi thông qua email: luatchaua.asialaw@gmail.com. Trân trọng./.
Nguồn: sưu tầm